Saturday, November 16, 2024

Vấn Nguyệt - 問 月

 Dạo:

     Trăng già gửi xác tha phương,

Vì sao phải bỏ quê hương năm nào?

 

Cóc cuối tuần:

 

       

    , 
    .
    , 

    ?

         

 

Âm Hán Việt:

 

        Vấn Nguyệt

Hải để trầm thiên nguyệt,

Hoàng quang nguyên mạn kiệt.

Nhữ hà biệt cố hương,

Đáo thử phương sinh diệt?

     Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

 

           Hỏi Trăng

Con trăng di cư chìm trong đáy biển,

Nguồn ánh sáng vàng dần khô cạn. 

Nhà ngươi vì sao (phải) bỏ quê cũ

Đến phương này (để) sống chết?

 

Phỏng dịch thơ:

 

                  Hỏi Trăng

    Trăng lưu lạc biển sâu chìm lỉm,

    Ánh sáng vàng tắt lịm đau thương.

        Sao người phải bỏ quê hương,

Để rồi sống chết cuối đường nơi đây?

                Trần Văn Lương

                Sydney, 11/2024

 

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:  


      Than ôi!           


      Con trăng kia tại sao phải bỏ quê hương, mang theo

     ánh sáng vàng đến phương này để rồi lụi tắt?

     Tìm hạnh phúc ư? Tìm tự do ư? Để được sống

     xứng đáng là con người ư?

     Hỏi tức là trả lời vậy!                     


Trăng lưu lạc

Những vầng trăng lưu đày biệt xứ 
Phận lênh đênh bạn lữ phù trầm 
Trùng phùng giọt lệ khôn cầm
Giữa đường chéo áo ướt đầm tiễn nhau 

Yên Nhiên

Kính họa vận :

              Dạo :
                         Quê hương trăng sáng ngàn nơi,
                        Dẫu xa vạn dặm không nguôi lòng này.    
      
  故鄉月                 CỐ HƯƠNG NGUYỆT

     Inline image

故鄉懷舊月,        Cố hương hoài cựu nguyệt,
異國猶難竭。        Dị quốc do nan kiệt.
我輩尋自由,        Ngã bối tầm tự do,     
天崖心不滅!        Thiên nhai tâm bất diệt !
           杜紹德                                 Đỗ Chiêu Đức

* Nghĩa bài thơ :
     - Nhớ mãi vầng trăng xưa ở quê nhà. Nên dù ở nơi...
     - Nước lạ quê người vẫn khó mà cạn lòng mong nhớ.
     - Lũ chúng ta dù mãi mê đi tìm tự do, nhưng...
     - Nơi chân trời góc bể lòng vẫn canh cánh khôn nguôi...

* Diễn Nôm :
                         TRĂNG QUÊ HƯƠNG

                        Inline image

                       Trăng quê nhà mãi nhớ, 
                       Đất khách vẫn không quên.
                       Đeo đuổi tự do đó,
                       Góc trời lòng vẫn bền !
        Lục bát :
                       Nhớ vầng trăng cũ quê nhà, 
                       Tha hương xứ lạ không nhòa ánh trăng.
                       Tự do mê mãi truy tầm,
                       Góc trời lòng vẫn âm thầm nhớ quê !

                                                                        Đỗ Chiêu Đức

Friday, November 15, 2024

Thấy Lại Người Xưa

 Dạo:

   Bao năm nhớ mãi một người,

Đến khi thấy lại, hỡi ơi, bẽ bàng.  

  

Cóc cuối tuần:

 

      Thấy Lại Người Xưa

 

Thoáng nghe em lớn tiếng la chồng,

Anh lết đến gần kín đáo trông.

Chỉ thấy chàng cam lòng chịu khổ,

Mặc em như bão tố cuồng phong.

 

Mắng con cũng đến thế mà thôi,

Xối xả như là nước lũ trôi.

Cũng chỉ một lời không hợp ý,

Mà em nỡ sỉ vả liên hồi.

 

Anh phục chồng em quả quá hiền,

Không hề phản ứng, vẫn điềm nhiên,

Không phiền, không giận, không nhăn nhó,

Đứng đó mong trời lặng sóng yên.

 

Em đà thay đổi thế này sao?

Anh lặng nhìn em, lệ muốn trào.

Không biết nguyên do nào thúc đẩy

Em thành như vậy, hỡi Trời cao!

 

Anh vội quay đi, dạ ngỡ ngàng,

Khung trời thơ mộng bỗng tan hoang,

Từng trang ký ức đang mờ nhạt,

Vụt nát như thân lá giữa đàng.

                      x

                  x      x

Anh nhớ em xưa thật dịu dàng,

Lúc nào cũng nhã nhặn đoan trang,

Dễ thương như một nàng tiên nhỏ,

Đâu có trò ăn nói ngược ngang.

 

Anh nhớ em mang chiếc áo dài,

Tinh tuyền như nắng buổi ban mai,

Sân trường đôi mắt nai ngơ ngác,

Dáo dác như tìm kiếm bóng ai.

 

Anh nhớ đôi khi sánh bước chiều,

Ngập ngừng muốn thổ lộ tình yêu,

Nhưng rồi cân nhắc điều hơn thiệt,

Nên quyết làm thinh chẳng dám liều.

 

Anh nhớ nhà anh vốn khó nghèo,

Gia đình kiếm sống thật gieo neo,

Nên nào có dám trèo cao quá,

Đành ngắm từ xa giá ngọc treo.

 

Anh chỉ buồn cho số phận anh,

Cả đời ở vách đất nhà tranh,

Công danh một chút còn chưa có,

Rất khó lọt vào được mắt xanh.

 

Nên đóng kịch làm vẻ thản nhiên,

Mà nghe lòng nhức nhối vô biên,

Giả vờ tỉnh rụi liền khi gặp,

Mặc ruột gan ăm ắp muộn phiền.

 

Năm cuối, dù niên học chửa xong,

Em đà lặng lẽ bước qua sông,

Theo chồng vui tới phương trời lạ,

Con nước, than ôi, đã lạc dòng.

 

Cánh hồng thoắt đã mịt mù khơi,

Lây lất mình anh giữa chợ đời,

Vẫn tưởng mình xa rời mãi mãi,

Ngờ đâu gặp lại chốn quê người.

 

Hỡi ơi, dưới móng vuốt thời gian,

Hình ảnh năm xưa sớm lụi tàn,

Người cũ dung nhan giờ nhếch nhác,

Nết na cũng khác biệt vô vàn.

 

Thiên đàng chỉ có ở văn chương,

Thực tế ra sao thật khó lường,

Trong cái thường kêu là "hạnh phúc",

Vẫn luôn tiềm phục sẵn đau thương.

                      x

                  x      x

Giữa lúc dương dương mắng mỏ chồng,

Này em, em có biết hay không,

Rằng trong đám khách vừa qua lối,

Có kẻ nghe như muối xát lòng.

              Trần Văn Lương

                Cali, 11/2024

Thursday, September 26, 2024

Nào Hay Em Đã

 Dạo:

      Tưởng rằng có nợ có duyên,

Ngờ đâu người đã chóng quên lối về.

  

Cóc cuối tuần:

 

    Nào Hay Em Đã

 

Em bảo em là giọt nắng mai,

Xóa tan đi bóng tối đêm dài,

Cho anh có được vài giây phút,

Chăm chút con tim trót rạc rài.

 

Em bảo em như ánh nguyệt rằm,

Trở về từ một kiếp xa xăm,

Vì anh soi góc trời tăm tối,

Để lối hẹn hò bớt lạnh căm.

 

Em bảo em là một áng thơ,

Đẹp như phố núi quyện sương mờ,

Giúp người trai trẻ ngu ngơ ấy

Tìm thấy ngõ vào cõi mộng mơ.

 

Em bảo em như khúc nhạc tình,

Nồng nàn hơn ngọn lửa ba sinh,

Xập xình qua mấy tầng dâu bể,

Kể thế gian nghe chuyện chúng mình.

 

Em bảo em là một giáng tiên,

Vì anh nên một phút cuồng điên,

Bỏ thiên đường xuống trần lây lất,

Chia sẻ cùng anh giấc muộn phiền.

 

Em bảo em như chiếc đũa thần,

Kéo anh khỏi vực tối trầm luân,

Tấm thân nay hết còn đơn lẻ,

Trên lối tình chung nhẹ bước chân.

 

Anh như bỗng chốc được hồi sinh,

Thế giới từ đây thuộc chúng mình,

Nhấp mãi chén quỳnh không biết mệt,

Cuộc đời ắt đã hết linh đinh.

                     x

                 x      x

Nào hay em đã vội ra đi,

Thăm thẳm chân trời nẻo biệt ly,

Bỏ lại khối tình si vất vưởng,

Đêm ngày gắng gượng kiếp Trương Chi.

 

Sửng sờ anh chẳng hiểu vì sao,

Em bỏ đi không một tiếng chào.

Anh có bao giờ thay đổi dạ,

Sao em nỡ bến lạ neo sào.

 

Từ đó hết còn ánh nắng mai,

Chỉ nghe giông bão tắp hiên ngoài,

Trăng xưa cũng miệt mài xa vắng,

Quanh quẩn bên mình chẳng có ai.

 

Thơ như lưu thủy, tựa hành vân,

Vì vắng em nay bỗng lạc vần,

Khúc nhạc cũng âm thầm tắt lịm,

Khói sầu lấp kín mảnh trời xuân.

 

Nàng tiên quên bẵng hết câu thề,

Để lối đêm về lạnh tái tê.

Chiếc đũa thần kia giờ đã mất,

Mặc người đối mặt với cơn mê.

                     x

                 x      x

Vẹt gót giày lê lết một mình,

Hết rồi chuyện ước nguyện ba sinh.

Lối tình xác lá nằm la liệt,

Khúc "Phụng Cầu Hoàng" chết lặng thinh.

 

Vất bỏ không đành quá khứ kia,

Ơ hờ lạc đến nghĩa trang khuya.

Não nề nghe gió đêm về nhắc,

Hãy khắc cho mình tấm mộ bia.

             Trần Văn Lương

               Cali, 9/2024


Thơ Cóc cuối tuần này buồn quá!
Lại bị cô láng giềng hành (làm ngơ)?

Gửi chàng thi sĩ họ Trần

Tiếng đờn lưu thủy hành vân 
Khi không lạc điệu mất vần, bởi chưng
Nàng nhìn như thể người dưng 
Đốt tương tư thảo, ngập ngừng nhả thơ...

Anna Nguyen

Friday, September 6, 2024

Mặc Như Lôi - 默 如 雷

Dạo:

     Diệu thay Đạo Pháp không lời,

Trong im lặng chính một trời sấm vang.

 

Cóc cuối tuần:

 

           Mặc Như Lôi

 

      ,

      .

      ,

      .

      ,

     便 .

      

      .

                  

 

Âm Hán Việt:

 

        Mặc Như Lôi

 

Lôi thanh tịch tịch chấn càn khôn,

Bồ tát nhập vi diệu pháp môn.

Đế Thích tán dương toàn nhật dạ,

Không Sinh tĩnh tọa chỉnh thần hôn.

Cao đồ khan giác hoa nhi tiếu,

Lương mã thiếu tiên ảnh tiện bôn.

Đại Sĩ dao đàn, kinh dĩ giảng,

Nhân vi Chí Đạo bản vô ngôn.

            Trần Văn Lương

Nghĩa:

 

            Im Lặng Như Sấm Sét (1)

Tiếng sấm lặng lẽ làm rúng động trời đất,

Bồ tát nhập vào pháp môn huyền diệu.  (2)

Đế Thích tán thán thâu ngày đêm,

Không Sinh ngồi tĩnh tọa suốt sáng tối. (3)

Người trò giỏi nhìn đóa hoa của giác ngộ mà cười, (4)

Con ngựa giỏi liếc (thấy) bóng của roi bèn chạy. (5)

Đại Sĩ lay cái đài cao, kinh đã giảng (xong), (6)

Bởi chưng Đạo Lớn (7) vốn không lời. (8)

 

Chú thích:

 

(1) Mặc Như Lôi: đây là một thuật ngữ của Phật giáo, đặc biệt là của Thiền tông, ngụ ý nói rằng

mặc dù Phật, các Bồ tát và chư Tổ thường dùng im lặng để khai ngộ cho các đệ tử, nhưng tác động

của sự im lặng này mạnh mẽ như là sấm sét.

 

(2) Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, bản dịch của Thiền sư Thích Duy Lực, phẩm thứ chín, Nhập Pháp Môn Bất Nhị:

"

... Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

   - Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt nhơn giả nói : "Thế nào là nhập pháp môn

bất nhị của Bồ tát ?"

     Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng:

    - Lành thay ! Lành thay ! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị.

"

 

(Xin xem thêm Bích Nham Lục, tắc 87: Duy Ma Bất Nhị).

 

(3) Bích Nham Lục, tắc 6: Vân Môn Hảo Nhật:

Trích lời Bình của Viên Ngộ (bình bài Tụng của Tuyết Đậu):

"

...

Như Tu Bồ Đề (*) tránh ồn ào tìm chốn yên tĩnh, vào trong hang núi tĩnh tọa, vua trời

(Đế Thích) làm mưa hoa xuống tán thán Tu Bồ Đề rằng, "Tôi trọng tôn giả khéo giảng Bát nhã".

Tu Bồ Đề nói, "Tôi chưa từng nói một chữ nào về Bát nhã".

Đế Thích nói, "Tôn giả không có nói, tôi cũng không có nghe. Không nói không nghe,

đó mới thật là nói về Bát Nhã".

(*) Tên khác là Không Sinh.

 

(4) Vô Môn Quan, tắc 6: Thế Tôn Niêm Hoa:

     Xưa Thế Tôn tại pháp hội Linh Sơn giơ cành hoa lên để thị chúng. Lúc đó mọi người đều

lặng thinh, chỉ có Ca Diếp nở mặt mỉm cười.

Phật bảo:

    - Ta có chính pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, tướng thực không tướng, pháp môn

vi diệu, không lập văn tự, tuyền riêng ngoài giáo, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.

 

(5) Vô Môn Quan, tắc 32: Ngoại Đạo Vấn Phật:

Cử:

Một kẻ ngoại đạo hỏi Phật:

- Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.

Thế Tôn ngồi yên trên tòa. Ngoại đạo tán thán nói:

- Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở đám mây tối tăm cho tôi, khiến cho tôi được vào.

Rồi làm lễ đầy đủ mà đi. A Nan tìm hỏi Phật:

- Ngoại đạo ngộ cái gì mà tán thán rồi đi vậy?

Thế Tôn nói:

- Như ngựa giỏi của thế gian, thấy bóng roi bèn chạy.

 

(Xin xem thêm Bích Nham Lục, tắc 65: Ngoại Đạo Lương Mã)

 

(6) Bích Nham Lục, tắc 69: Đại Sĩ Giảng Kinh:

Cử:

Lương Vũ Đế thỉnh Phó Đại Sĩ giảng kinh. Đại Sĩ lên tòa giảng,

lay bàn một cái rồi xuống khỏi tòa.

Vũ Đế ngạc nhiên.

Chí Công hỏi: "Bệ hạ có hiểu không?".

Đế bảo: "Không hiểu".

Chí Công nói: "Đại Sĩ giảng kinh xong rồi".

 

(7) Về chữ Đạo Lớn (Chí Đạo) xin xem thêm Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán.

 

(8) Bích Nham Lục, tắc 12: Động Sơn Tam Cân:

 

Trích lời Bình của Viên Ngộ:

...  Há không thấy người xưa bảo: Đạo vốn không lời, nhân lời mà bày tỏ đạo,

thấy đạo rồi tức quên lời.

 

Xin so sánh với:

   - Lão tử Đạo Đức Kinh, chương Thể Đạo: "Đạo khả đạo, phi thường đạo" và chương Dưỡng Thân:

"Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo" (Vì vậy

thánh nhân dùng "vô vi" mà xử sự, dùng "không lời" mà dạy dỗ).

   - Trang tử Nam Hoa Kinh, thiên Trí Bắc Du: "Cố thánh nhân hành bất ngôn

chi giáo" (Cho nên thánh nhân thực hành việc giáo hóa mà không dùng lời nói).

 

 

Phỏng dịch thơ:

 

        Im Lặng Sấm Sét

 

Lặng im như sấm nổ tung trời,

Bồ tát làm thinh khéo độ người.

Đế Thích tán dương thời chẳng dứt,

Không Sinh tĩnh tọa phút nào ngơi.

Ngựa hay roi chửa hươi đà chạy,

Kẻ ngộ hoa vừa thấy vội cười. 

Đại Sĩ ngậm hơi, kinh giảng trọn,

Bởi chưng Đạo Lớn vốn không lời.

              Trần Văn Lương

                 Cali, 9/2024

 

Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư:

    Thế Tôn lặng thinh, Duy Ma Cật không lời, thế mà sự im lặng lại vang như sấm sét!

     Quả có lý này ư?

    Trong kinh (Hoa Nghiêm, Lăng Già) Đức Phật dạy rằng trong 49 năm giáo hóa Ngài

chưa hề nói một chữ hay một lời nào.

    Khó hiểu thật ư? Hãy nhìn cánh hoa kia và khẽ mỉm cười!

    Đấy!

    Lành thay!

Monday, July 29, 2024

Thú Dữ

 Dạo:

        Thú rừng có dữ mười mươi,

Cũng không độc ác bằng người với nhau.



 I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa (Sonnet, alexandrin, rimes: ABBA ABBA CCD EDE)

Les Prédateurs

 

Les nuages décampent, bannis par la chaleur,

Commence le falcon sa chasse quotidienne,

D'en-haut ses yeux perçants visent sa proie terrienne,

Le lièvre rencontre donc son dernier malheur.

 

Dans la forêt le lion, calme comme un voleur,

Toujours prêt à réagir, presto, quoi qu'il advienne,

Avec patience attend que sa victime vienne,

Laquelle va souffrir l'indicible douleur.

 

Si cruel que ce semble, néanmoins par leur nature

Ces animaux doivent tuer pour leur nourriture,

À tort blâmés d'être de méchants malfaiteurs;

 

Mais l'homme, au contraire, par le crime et la guerre,

Sans doute est le pire de tous les prédateurs,

Massacrant l'un l'autre, ruinant à fond la terre. 

                Trần Văn Lương

                   Cali, 7/2024


 

II. Thơ Việt:

 
            Thú Dữ 


 

Trời rực lửa, mây đen dần tứ tán,

Chim ưng đang sửa soạn chuyến săn mồi,

Mắt sáng ngời không ngớt quét ngược xuôi,

Bầy thỏ nhỏ phút cuối đời đã tới.

 

Con sư tử vẫn nín hơi nằm đợi,

Nanh vuốt luôn trong trạng thái sẵn sàng,

Con mồi nào lỡ xui xẻo chạy ngang

Sẽ gặp kiếp nạn vô vàn thảm thiết.

 

Lũ cầm thú dù mang danh ác nghiệt,

Luật thiên nhiên chúng chỉ biết tuân hành.

Vì sống còn, chúng đã phải sát sanh.

Tuy hành động quả thập thành tàn khốc.

 

Nhưng trái lại, con người sao ác độc,

Luôn tạo thành cảnh chết chóc, chiến tranh,

Gây tang thương cho triệu triệu dân lành,

Đó mới chính đích danh là thú dữ.

               Trần Văn Lương

                  Cali, 7/2024

 

 

III. Thơ Anh văn: (Shakespearean sonnetiambic pentameter, rhymes: ABAB CDCD EFEF GG)

 

        The Predators 


 

The clouds are scattered by the brutal heat,

The falcon starts its daily hunting chore,

Its piercing eyes have found its daily meat,

The hare then meets the River Styx dark shore.

 

The lion hence proceeds to lie in wait,

Forever ready for all that may come,

With patience listens to its victim's gait,

That beast will soon its usual meal become.

 

However things appear externally,

The laws of nature are immutable.

These animals, due to their destiny,

Must kill to live, hence less reproachable.

 

And man, of war and crime real fomenter,

Is certainly the meanest predator.

              Trần Văn Lương

                 Cali, 7/2024

 

 

IV. Thơ Tây Ban Nha: (Soneto clásico, endecasílabos, rimas: ABBA ABBA CDC DCD)

 

     Depredadores

 

Las nubes, el calor ha desterrado,

Ha comienzado su caza el halcón.

Al ver la presa, aprisa toma acción,

La liebre su última pena ha encontrado.

 

El león, en el bosque agazapado,

Despuesto para cualquier reacción,

Firmemente quedando en el talón,

Está esperando que llegue el venado.

 

Los animales, por naturaleza,

Sólo para evitar el hambre matan

Falsamente acusados de bruteza.

 

De los depredadores que se tratan,

Hombres son los peores, con certeza,

Con guerra y crímen, la tierra desmatan.

            Trần Văn Lương

              Cali, 7/2024

 

V.  Thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)

 

       Praedatoria Animalia

 

Effugiunt nubes, pulsae vehementi calore,

Falco aggredit quotidianam venationem.

Cum acutis oculis praedam andagat ab aere,

Lepus ergo incidit finem dolorosam.

 

In silva alta, leo sicut fur nox placidus est,

Et semper velox ad actiones habendum.

Victimae incautae adventum expectat patienter,

Haec igitur patitur valde tragoediam atrocem.

 

Secundum naturam, crudelem et asperam,

Ad vivendum, animalia occidere alia debent,

Male accusata sunt ut atrocissimi scelesti;

Homo autem, contra, cum bello scelereque,

Certe pessimus inter omnes praedatores est,

Inter se occidens et terram depopulans.

                   Trần Văn Lương

                      Cali, 7/2024

 

(*) Ghi chú:

    Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau (pied thứ 5 bao giờ cũng phải là một dactyl):

 

Ēffŭgĭ|ūnt nū|bēs, pūl|sǣ vĕhĕ|mēntĭ că|lōre,                   DSSDDS

Fālco‿āg|grēdīt| quōtĭdĭ|ānām| vēnătĭ|ōnem.                  SSDSDS

Cum‿ācū|tīs ŏcŭ|līs prǣ|dām⁔ān|dāgăt ăb| ǣre            SDSSDS

Lēpūs| ērgō|⁔īncī|dīt fī|nēm dŏlŏ|rōsam                          SSSSDS

 

Īn sīlva|‿āltă, lĕ|ō sī|cūt fūr| nōx plăcĭ|dūs est,                SDSSDS

Ēt sēm|pēr vē|lōx ād| āctī|ōnĕs hă|bēndum.                       SSSSDS

Vīctī|mae‿īncāu|tae‿ādvēn|tum‿ēxpēc|tāt pătĭ|ēnter,  SSSSDS

Hǣc ĭgĭ|tūr pătĭ|tūr vāl|dē trā|gœ̄dĭam‿ă|trōcem.            DDSSDS

 

Sēcūn|dūm nā|tūrām|, crūdē|lēm⁔ĕt ăs|pēram,                SSSSDS

Ād vī|vēndum,‿ănĭ|mālĭă|⁔ōccĭdĕ|re‿ālĭă| dēbent,      SDDDDS

Māle‿ā|ccūsătă| sūnt ŭt ă|trōcīs|sīmĭ scĕ|lēsti;                SDDSDS

Hōmō|⁔āutēm|, cōntrā|, cūm bēl|lō scĕlĕ|rēque              SSSSDS

Cērtē| pēssĭmŭs| īntēr| ōmnēs| prǣdătŏ|rēs est,                SDSSDS

Īntēr| sē⁔ōc|cīdēns| ēt tēr|rām dĕpŏ|pūlans.                    SSSSDS

 

 

VI.  Thơ Hán:

 

          

 

      ,

      ,

      ,

      .

 

      ,

      .

      ,

      .

 
      ,
      ,

      ,

      .   

 

      ,

      .
      ,
      .

             

 

 

Âm Hán Việt:

 

               Ác Thú

Thanh thiên nhiệt lãng tán ô vân,

Thụ thượng lão ưng tảo khởi thân,

Thiểm thiểm mục quang tuần khoáng thổ,

Thị trung tiểu thố tất quy thần.

 

Sư lãnh tĩnh như dạ tặc nhi,

Tha nha trảo tổng bị tùy thì.

Ô hi, liệp vật phùng nguy lộ,

Trát nhãn chi gian ngộ tử kỳ.

 

Dã thú tuy tần tạo huyết tinh

Đản tha môn chỉ bảo kỳ sinh.

Phân minh tuân tự nhiên quy luật,

Nhật nhật bình tâm sát bất đình.

 

Nhân loại nhiên nhi hựu bất đồng,

Hỗ tương đồ sát, sự nan dung.

Chiến tranh gia thượng xung thiên tội,

Nhân thị trần gian vật tối hung.

       Trần Văn Lương

          Cali, 7/2024

 

Nghĩa:

 


                Thú Dữ

Trên trời xanh làn hơi nóng làm tan mây đen,

Trên cây con chim ưng già dậy sớm,

Đôi mắt lấp loáng tuần tra vùng đất rộng,

Con thỏ nhỏ ắt phải (lên) chầu Trời.

 

Con sư tử yên lặng như kẻ trộm đêm,

Răng và móng vuốt luôn sẵn sàng.

Than ôi, con mồi đụng phải con đường nguy hiểm,

Trong chớp mắt gặp kỳ hạn chết đến.

 

Loài thú hoang dù hay đổ máu,

Nhưng chỉ vì muốn bảo tồn mạng sống mình.

Rõ ràng tuân theo quy luật tự nhiên,

Nên thản nhiên giết hại mỗi ngày không ngừng nghỉ.

 

Tuy nhiên, nhân loại thì lại khác,

Chuyn giết hại nhau khó có thể chấp nhận được.

Với chiến tranh cộng thêm tội ác ngập trời,

Con người là sinh vật hung dữ nhất trần gian.