Thursday, October 14, 2010

Phi Nghĩ

Bài thơ "Con Kiến Cánh" của anh Nguyễn Đình Sài đã biểu lộ tấm lòng tha thiết đối với nước non. Tôi xin mạn phép được làm chuyện ngược đời là chuyển bài thơ ra Hán văn. Mặc dầu là dịch thoát không gò từng chữ từng câu cho sát, nhưng tôi cũng cố gắng để không phản lại ý của tác giả trong nguyên bản. Bài tiếng Hán này xin được kính tặng anh Sài.

Nguyên tác tiếng Việt của anh Nguyễn Đình Sài:

Con Kiến Cánh
[Họa bài "Mưa Lớn"]

Bốn mùa nuôi chí chẳng lung lay
Trăn trở theo chiều ngọn gió bay (*)
Gặp tiết đông hàn khôn tủi phận
Phải thời hạn hán vẫn thương bầy
Phục hồi tổ quốc tâm còn tỉnh
Vọng tưởng niết bàn dạ chẳng say
Món nợ nhân sinh không thể đổ
Dám nào mơ mộng cõi trên mây?
Nguyễn Đình Sài

(*) Hai câu này có ý diễn tả sự khó khăn của con kiến cánh bay trong cơn gió, mà cũng có ý so sánh sự khó khăn của người Việt trong luồng gió chính trị hiện nay.


Âm Hán Việt:

Phi Nghĩ

Niên niên tráng  chí tự kiên san,
Phi nghĩ phong đầu thụ vạn nan.
Tân khổ hộ quần du cửu hạn,
An nhiên lạc mệnh nhẫn đông hàn.
Thu hồi Tổ quốc, tâm do lự,
Vọng tưởng Niết bàn, phúc bất tham.
Đại trái kim sinh tu tất báo,
Khởi năng bả mộng hí nhân gian.

Trần Văn Lương phỏng dịch


Nghĩa:
Con kiến cánh
Năm này qua năm khác, chí lớn như núi vững,
Con kiến cánh đầu gió gánh chịu vạn khó khăn.
Vất vả lo cho bầy để vượt qua cơn hạn hán dài,
Điềm tỉnh vui với số mệnh để chịu đựng cái lạnh mùa đông.
Lấy lại tổ quốc, lòng vẫn còn lo lắng,
Vọng tưởng Niết bàn, dạ chẳng tham.
Nợ lớn đời này phải trả hết,
Há có thể đem mộng mị đùa giỡn chốn nhân gian.

Kính Lương huynh

Cảm ơn huynh đã tặng một bài thơ, ý thì rất thâm sâu và tứ thì thật trác tuyệt.

Dạo này mỗi tuần thường nhận một bài thơ của huynh, riết rồi thành ... ghiền, tuần nào không có lại cảm thấy thiếu. Nhưng nhận rồi cũng có vấn đề, vì không có thì giờ họa thơ, lại tự cảm thấy mình mắc nợ.

Thôi thì tuần này rán họa bằng một bài thơ "con kiến cánh" với thân phận mỏng manh. Tuy họa vận cả bình lẫn trắc mỗi câu bài thơ "Mưa lớn" của huynh, nhưng ý là để nhờ huynh nhắn giùm với ngài Phi Dã Thiền Sư "khó tính", chứ không dám có phạm ý gì với Lương huynh, một thi hữu mà tại hạ rất khâm phục vì kiến thức thông bác và tánh tình lịch thiệp.

Thưa ngài Phi Dã Đại Sư, tại hạ suốt đời lao tâm tổn trí thi hành bổn phận của một tên thất phu trong cơn quốc biến mà vẫn chưa ra gì. Có điều tại hạ thà bị đọa làm 1000 kiếp "con kiến cánh" miệt mài với món nợ nhân sinh của giòng Hồng Lạc, còn hơn bắt chước con chồn Hồ, mang "râu đỏ" của người khác mà nghe kệ của đại sư để mong thoát được kiếp chồn.

Sau đây là bài thơ họa của "con kiến phàm phu". nếu Lương huynh thích và nếu có thì giờ xin chuyển ngữ ra hán tự.

Kính
NDS

Bài xướng:

Mưa lớn
Ngọn gió tàn thu chửa kịp lay,
Mưa rào đã cản ánh chiều bay .
Lạnh lùng rơi rụng hoa thương phận,
Vội vã bôn ba nhạn nhớ bầy .
Bách Trượng ung dung, chồn cáo tỉnh,
Kính Thanh điên đảo, chúng sinh say .
Trời cao thác nước ào tuôn đổ,
Trong vắt tầng xanh chẳng chút mây .

Trần Văn Lương

Bài họa:

Con Kiến Cánh[Họa bài "Mưa Lớn"]

Bốn mùa nuôi chí chẳng lung lay
Trăn trở theo chiều ngọn gió bay (*)
Gặp tiết đông hàn khôn tủi phận
Phải thời hạn hán vẫn thương bầy
Phục hồi tổ quốc tâm còn tỉnh
Vọng tưởng niết bàn dạ chẳng say
Món nợ nhân sinh không thể đổ
Dám nào mơ mộng cõi trên mây?
Nguyễn Đình Sài

(*) Hai câu này có ý diễn tả sự khó khăn của con kiến cánh bay trong cơn gió, mà cũng có ý so sánh sự khó khăn của người Việt trong luồng gió chính trị hiện naỵ

Dẫn nhập:
Cuối tuần một trận mưa to,
Cóc Thiền trong hốc lò dò đi ra .


Âm Hán Việt:
Đại vũ
Nhật mộ thu phong vị khởi thân,
Oanh oanh đại bái nịch tà huân.
Thê thê lạc địa hoa sầu mệnh,
Cấp cấp quy gia nhạn ức quần.
Bách Trượng điện trung hồ đắc pháp,
Kính Thanh môn ngoại vũ mê nhân.
Thao thao bộc bố tùng thiên chú,
Lãng lãng thương mân một phiến vân.
Trần Văn Lương

Nghĩa:Mưa lớnTrời chiều, gió thu chưa chuyển mình trỗi dậy,
Ầm ầm mưa lớn đã làm chìm mất ánh nắng tà.
Lạnh lẽo rơi trên đất, hoa buồn cho số mệnh,
Hấp tấp về nhà, chim nhạn nhớ bầy .
Trong Phật điện của Bách Trương, con chồn ngộ được Phật
pháp, (1)
Ngoài cửa của Kính Thanh, mưa làm mê mờ người . (2)
Mênh mông thác nước từ trời rót xuống,
(Nhưng) trên trời xanh sáng rỡ chẳng có một chút mây .

Chú thích:
(1) Công án "Bách Trượng dã hồ", Vô môn quan, tắc 2
(dựa trên bản dịch của Trần Tuấn Mẫn)

Bách Trượng Thiền Sư mỗi khi giảng pháp đều thấy có một
lão già vào nghẹ Khi mọi người ra đi thì lão cũng ra đị Nhưng
một hôm, lão ở lại.
Sư bèn hỏi:
- Ai đứng đó ?
- Bạch Thầy, tôi không phải là người. Thời xưa, tôi ở
núi này, và có người theo học hỏi tôi: "Bậc đại tu hành còn
rơi vào nhân quả không ?", tôi trả lời: "Không rơi vào nhân
quả (bất lạc nhân quả)", bèn bị đọa làm thân chồn 500 kiếp.
Nay xin thầy ban cho một lời (chuyển ngữ) để thoát kiếp
chồn.
Lão già bèn hỏi:
- Bậc đại tu hành còn rơi vào nhân quả không ?
Sư trả lời:
- Không mê mờ nhân quả (Bất muội nhân quả).
Lão già đại ngộ, cúi đầu lạy và nói:
- Tôi đã thoát kiếp chồn, đang ở sau núi, xin Thầy an
táng theo nghi lễ.
Sư bèn bảo thầy duy na báo cho mọi người rằng ăn xong sẽ làm
lễ chôn cất một tăng sĩ vừa mới chết. Mọi người đều
ngạc nhiên, không biết là aị
Dùng ngọ xong, Sư dẫn mọi người ra sau hốc núi, dùng gậy
khều ra một xác chồn hoang và đem đi hỏa táng.
Tối đến, Sư thượng đường kể lại chuyện cho mọi
người. Hoàng Bá (Hoàng Bá Hy Vận là đệ tử đắc pháp của
Bách Trượng Hoài Hải và là thầy của Lâm Tế Nghĩa Huyền)
hỏi:
- Người xưa vì đáp sai một lời mà bị làm chồn 500
kiếp. Giả sử câu nào cũng không đáp sai thì saỏ
Sư nói : - Lại gần đây ta nói cho .
Hoàng Bá lại gần tát Sư một cái. Sư vỗ tay cười nói:
- Tưởng râu tên Hồ màu đỏ, ai ngờ lại gặp tên Hồ đỏ
râu.

(2) Công án "Kính Thanh vũ trích", Bích Nham Lục, tắc 46
(dựa trên bản dịch của Hoà thượng Thích Mãn Giác)

Kính Thanh Thiền Sư hỏi ông tăng:
- Ngoài cửa tiếng gì vậy ?
Ông tăng đáp:
- Tiếng giọt mưa rơi .
Sư nói:
- Chúng sanh điên đảo, mê mờ rồi đuổi theo sự vật
Ông tăng :
- Thế Hoà Thượng thì sao ?
Sư :
- Ta suýt nữa là không mê mờ chính mình rồi .
Ông tăng hỏi :
- "Suýt nữa là không mê mờ chính mình" nghĩa là gì ?
Sư trả lời :
- Xuất thân thì dễ, thoát thể mới là khó .


Phỏng dịch:
Mưa lớnNgọn gió tàn thu chửa kịp lay,
Mưa rào đã cản ánh chiều bay .
Lạnh lùng rơi rụng hoa thương phận,
Vội vã bôn ba nhạn nhớ bầy .
Bách Trượng ung dung, chồn cáo tỉnh,
Kính Thanh điên đảo, chúng sinh say .
Trời cao thác nước ào tuôn đổ,
Trong vắt tầng xanh chẳng chút mây .

Lời bàn ngang của Phi Dã Thiền Sư: Không có nhân mà có quả được ru ? Không mây mà có mưa được ru ? Rành rành nhân quả, thiên võng khôi khôi sao lại tích nhật vân, kim nhật vũ nhỉ. Cái gã họ Trần này quả thật là lẩm cẩm. Hừm, không có mây hay là gã cập bà là tóe không thấy mây ? Bất lạc ư ? Bất muội ư ? Uổng công hai lão hán Kính Thanh và Bách Trượng lao đao vất vả vì người !
Than ôi, lão tăng càng ngày càng mờ mờ mịt mịt, biết khi nào mới thoát kiếp chồn hoang ?

No comments:

Post a Comment