Vọng Xuân
Dạo:
Xuân kia vẫn khuất chân trời,
Sao hoa vội nở, mặc người trong đêm.
Cóc cuối tuần:
望 春
灝 灝 冬 霖 漫 草 田,
桃 花 老 鳥 待 新 年.
鰥 猴 戴 影 峯 頭 噭,
病 藻 含 霜 水 畔 眠.
壯 士 窮 途 屍 滿 地,
英 雄 末 路 恨 滔 天.
春 暉 未 到 花 狂 放,
鳥 死 寒 矑 望 故 園.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Vọng Xuân
Hạo hạo đông lâm mạn thảo điền,
Đào hoa lão điểu đãi tân niên.
Quan hầu đái ảnh phong đầu khiếu,
Bệnh tảo hàm sương thủy bạn miên.
Tráng sĩ cùng đồ, thi mãn địa,
Anh hùng mạt lộ, hận thao thiên.
Xuân huy vị đáo, hoa cuồng phóng,
Điểu tử, hàn lô vọng cố viên.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Ngóng Xuân
Mênh mông mưa dầm mùa đông làm ướt sũng ruộng cỏ,
Hoa đào và con chim già (cùng) đợi năm mới.
Con khỉ góa vợ đội bóng mình gào khóc trên đầu núi,
Rong rêu bệnh hoạn ngậm sương nằm ngủ ven bờ nước.
Tráng sĩ cùng đường, xác (nằm) đầy đất.
Anh hùng cuối nẻo, nỗi hận ngập trời.
Nắng xuân chưa đến (mà) hoa đã điên cuồng nở,
Con chim chết, (nhưng) tròng mắt lạnh (vẫn) ngóng về vườn cũ.
Phỏng dịch thơ:
Ngóng Xuân
Mưa Đông lạnh đầm đìa trên xác cỏ,
Con chim già, cánh đào nhỏ chờ Xuân.
Đầu non cao, khỉ góa khóc vang rân,
Rong rêu úa lịm dần bên bến đục.
Tráng sĩ sa cơ, xương nằm chen chúc,
Anh hùng mạt lộ, oán ngút trời xanh.
Xuân chưa sang, hoa vội thắm rực cành,
Con chim chết, mắt buồn canh lối cũ.
Trần Văn Lương
Cali, Xuân Tân Mão, 2/2011
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
Xuân chưa sang, hoa đã nở. Con chim già kia chết làm sao nhắm mắt được, hỡi ơi!
******
Trích: Góp ý của Phạm Xuân Hy
Tuy không biết làm thơ, nhưng tôi thường thưởng thức thơ bằng cách cảm nhận, và tìm hiểu những ngôn từ, văn phong, mà tác giả sử dụng. Cũng thế, hai câu thơ dưới đây trong Bài thơ Vọng Xuân của anh Trần Văn Lương:
…
鰥 猴 戴 影 峯 頭 噭,
病 藻 含 霜 水 畔 眠.
Quan hầu đái ảnh phong đầu khiếu,
Bệnh tảo hàm sương thủy bạn miên.
Có thể khiến độc giả nghĩ đến những câu thơ Đường gọi là « Thiên Cổ Danh Cú » của các nhà thơ Trung Hoa.Và một điều làm tôi ngạc nhiên nữa, là tác giả sáng tạo ra những lời thơ trên đây là một người Việt Nam, không phải một người Trung Hoa.
Ngòai ra, những từ ngữ chữ Hán như « Quan hầu », « Bệnh tảo », « Lão điểu », « Tráng sĩ cùng đồ », « Anh hùng mạt lộ » đã được tác giả lựa chọn sử dụng để nói lên nỗi buồn trông ngóng xuân về của những người anh hùng , chíến sĩ mà « tráng chí vị thù thân dĩ lão ».Đành ôm mối « hận thao thiên » như Văn Thiên Tường của Tầu và Đặng Dung, Đặng Tất của Việt Nam. Cũng chẳng khác gì như « con khỉ góa » lên đỉnh núi cao mà gào khóc người vợ đã qua đời, hay người đồng đội khóc người bạn cũ đã hy sinh nơi chiến trường xưa.
Ở cuối bài, tác giả đã dựng lên một hình ảnh khá bi thiết não nùng, nhất là đối với những ai đang phải chịu cảnh tha hương sống nơi dị xứ vào lúc cuối đời:
鳥 死 寒 矑 望 故 園
Điểu tử hàn lô vọng cố viên (Con chim chết tròng mắt đã nguội lạnh mà vẫn trông ngóng về ngôi vườn cũ).
Nghe âm vang thật buồn.
Những từ ngữ chữ Hán tác giả sử dụng trong bài thơ này đã gây ấn tượng sâu sắc người đọc, trong đó có tôi.Và tôi đã để thì giờ để tim hiểu xuất xứ và học hỏi thêm những chữ « Quan hầu », « Bệnh tảo », « Hàn lô ».
Tác giả phải là một người hiểu biết sâu rộng về Hán Văn, thuộc thơ Đường, quen làm thơ Đường, chứ không phải chỉ mới học năm sáu năm.
Thụ Nhân quả có lắm bậc anh tài.
(trích: góp ý của Phạm xuân Hy)
No comments:
Post a Comment